1. Các thông số kỹ thuật cần chú ý khi lựa chọn máy chiếu

Các thông số kỹ thuật cần quan tâm khi chọn mua Máy chiếu là gì? Máy chiếu là sản phẩm rất hứa hẹn trong thời gian tới. Thị trường máy chiếu đã bùng nổ về chủng loại, nhãn hiệu với tính năng ngày càng mạnh và giá hạ. Sau đây là một số thông tin tham khảo cần thiết khi bạn quyết định mua máy chiếu.

I-/ ĐỘ PHÂN GIẢI CỦA MÁY CHIẾU
Một trong những câu hỏi thường được đặt ra là liệu có đáng để bỏ ra nhiều tiền hơn cho việc mua máy chiếu có độ phân giải cao hơn. Đây là vấn đề quan trọng vì nó ảnh hưởng đến số tiền bạn phải trả, đôi khi khác biệt lên đến cả hàng trăm đô-la.

Phần giải thích sau phần nào giúp bạn có quyết định phù hợp hơn khi mua máy chiếu.

Độ phân giải quyết định độ nét cũng như độ trong của hình ảnh trên màn chiếu. Độ phân giải càng lớn thì giá càng cao. Đơn vị tính của Độ phân giải là điểm ảnh (pixel): SVGA (800x600), XGA (1024x768); SXGA (1280x1024); UXGA (1600x1200).

SVGA, XGA, SXGA, UXGA là gì?

Đây là những chuẩn chính về độ phân giải. Độ phân giải (resolution) là số các ảnh điểm (pixel) mà máy chiếu có thể hiển thị. Ảnh điểm là các điểm riêng lẻ tạo nên hình ảnh trên máy tính.

SVGA, XGA, SXGA và UXGA là các thuật ngữ mô tả các độ phân giải sử dụng bởi máy tính và máy chiếu. Bảng dưới đây cho thấy số ảnh điểm được hiển thị ở các độ phân giải khác nhau.

* SVGA có thể đáp ứng nhu cầu xem phim, tuy nhiên bạn có thể thấy hiện tượng “răng cưa” khi trình diễn đồ hoạ hay tài liệu PowerPoint từ máy tính.
* XGA gần như là “chuẩn” cho công việc văn phòng, giao dịch, đáp ứng tốt việc trình diễn dữ liệu, đồ hoạ hay video; mặt khác hầu hết MTXT đều có độ phân giải chuẩn XGA nên tương thích tốt với máy chiếu.
* SXGA dành cho những ứng dụng đòi hỏi độ phân giải cao, trình diễn hình ảnh lớn và chi tiết như các ứng dụng CAD/CAM.
* UXGA cho chất lượng, chi tiết hình ảnh tốt hơn cả, nhưng thường đắt tiền và ít sản phẩm trên thị trường.

Điều này áp dụng cho máy chiếu như thế nào?

Mỗi máy chiếu có một độ phân giải thực (native resolution, true resolution). Đó là số ảnh điểm tối đa mà máy chiếu thực sự có thể hiển thị. Như thế một máy chiếu SVGA chỉ có thể hiển thị 480.000 ảnh điểm một lúc.

Nghe có vẻ nhiều, nhưng nếu chiếu lên một màn chiếu rộng 2 m, mỗi ảnh điểm sẽ chiếm 0,25 cm. Trong khi đó, với một máy chiếu XGA, mỗi ảnh điểm chỉ chiếm nhỏ hơn 0,2 cm, và số ảnh điểm được hiển thị nhiều hơn 60%. Có nghĩa là hình ảnh sẽ nét và rõ hơn khi được chiếu với máy chiếu XGA.

Như vậy có phải độ phân giải chỉ ảnh hưởng đến độ sắc nét của hình ảnh?

Không. Nó còn ảnh hưởng đến sự tương thích giữa máy chiếu và máy tính. Nếu máy tính gởi tín hiệu XGA đến máy chiếu SVGA, sẽ có vấn đề xảy ra. Phần lớn các máy chiếu đều có kỹ thuật nén (compression), và ta vẫn thấy hình ảnh, nhưng chất lượng hình ảnh bị giảm (xem chi tiết ở phần Nén XGA và SVGA bên dưới).

Nên xem xét vấn đầu tư lâu dài khi mua máy chiếu. Phần lớn máy tính hiện nay chạy ở chế độ XGA, SVGA ít thông dụng hơn. Do đó sẽ bị giới hạn khi sử dụng máy chiếu SVGA.

Nếu máy tính chạy ở chế độ SXGA, nên thay đổi độ phân giải này khi sử dụng máy chiếu, vì giá của máy chiếu SXGA cao hơn nhiều lợi ích thu được (ở độ phân giải này).

Nếu máy tính chạy ở chế độ SVGA, sử dụng máy chiếu XGA vẫn tốt hơn. Vì máy chiếu XGA xử lý tốt hình ảnh SVGA, hình ảnh không bị biến dạng; và có thể sử dụng cho các độ phân giải khác nhau. Tuy nhiên, đối với một số người dùng, các lợi ích này không cân bằng với việc trả thêm tiền để mua máy chiếu XGA.

Nén XGA và SXGA là gì?

Phần lớn máy chiếu chấp nhận tín hiệu có độ phân giải cao hơn độ phân giải thực của nó, nhưng nó sẽ nén hình ảnh từ máy tính thành ít ảnh điểm hơn. Kết quả là một số ảnh điểm của máy tính được chia sẻ cho cùng ảnh điểm mà máy chiếu hiển thị. Điều này ít quan trọng khi chiếu ảnh hay phim, vì ta không chú ý nhiều, nhưng với chữ thì là một câu chuyện khác hẳn, đặc biệt là đối với chữ cỡ nhỏ, như minh hoạ dưới đây.

Hình minh hoạ cho thấy kết quả của máy chiếu SVGA hiển thị chữ ở chế độ XGA, với 2 kỹ thuật nén khác nhau. Ví dụ thứ hai phổ biến hơn với phần lớn máy chiếu. Một số nhãn hiệu có kỹ thuật nén tốt hơn, sẽ cho kết quả như ví dụ thứ nhất.

II-/ ĐỘ SÁNG

Độ sáng được đo bằng ANSI lumen, chỉ số này càng cao thì máy chiếu càng sáng. Cách đơn giản nhất để chọn máy chiếu là căn cứ vào số lượng người và kích thước phòng họp để quyết định độ sáng, một yếu tố khác là dữ liệu mà máy chiếu của bạn dùng để trình diễn là động hay tĩnh.
Thường thì độ sáng của máy chiếu nằm trong khoảng từ 650 đến 5000 lumen.

o Dưới 1000 lumen: rẻ và phù hợp với ngân sách hạn hẹp. Tuy nhiên, bạn phải dùng cho những phòng tối.

o 1000 đến 2000 lumen: Đây là mức sáng mà bạn có thể tìm thấy rất nhiều sản phẩm có độ phân giải SVGA và XGA, thích hợp cho những phòng họp, lớp học.

o 2000 đến 3000 lumen: Sản phẩm thuộc lớp này thích hợp cho phòng họp hay lớp học lớn khoảng 100 người.

o 3000 lumen trở lên: Dùng trong những hội trường lớn, lớp huấn luyện, nhà thờ, hoà nhạc...

o 5000 lumen dành cho phòng họp trên 100 người và đèn sáng. 6000 lumen trở lên dành cho những sự kiện lớn như triển lãm, hội chợ, hội nghị với hàng ngàn người tham dự.

III-/ ĐỘ TƯƠNG PHẢN

Độ tương phản được biểu diễn bằng tỷ số giữa các vùng sáng nhất và tối nhất của hình ảnh, hay nói cách khác là tỷ lệ giữa phần sáng nhất và phần tối nhất mà máy chiếu tạo ra được. Bạn nên chọn tỷ lệ tương phản từ 400:1 trở lên để có hình ảnh trong. Nếu bạn muốn dùng máy chiếu trong phòng có ánh sáng thì phải chọn độ tương phản cao hơn.

IV-/ TRỌNG LƯỢNG

Máy chiếu càng nhẹ càng đắt. Nếu đặt cố định trong phòng thì trọng lượng 9 kg trở lên không là vấn đề. Nếu thường xuyên di chuyển thì có thể chọn loại máy nhẹ chưa đến l,3 kg.

V-/ KHẢ NĂNG KẾT NỐI

Nếu có nhu cầu kết nối với những nguồn tín hiệu khác ngoài MTXT, bạn nên xem xét số cổng tín hiệu để có thể kết nối cùng lúc từ nhiều máy tính hay nguồn video với máy chiếu.

VI-/ Tuổi thọ bóng đèn

Vì giá của bóng đèn chiếu thường cỡ vài trăm USD, bạn nên xét tuổi thọ của nó. Thông số tuổi thọ từ 2000 giờ trở lên được coi là tốt nhất. Hiện nay nhiều máy chiếu đã có thêm chế độ tiết kiệm (eco-mode) vừa tăng tuổi thọ bóng đèn vừa tiết kiệm chi phí.

VII-/ Tính dễ dùng

Nhìn chung các máy chiếu hiện nay rất tiện dụng, bạn chỉ mất chưa đến 5 phút để lắp đặt và trình chiếu. Tuy nhiên cũng nên xét thêm các yếu tố như:

o Bộ điều khiển từ xa. Bạn có thể điều chỉnh, kiểm soát chức năng của máy chiếu từ bất kỳ vị trí nào. Chọn loại đơn giản, dễ điều khiển. Nếu bộ điều khiển có thể dùng cho chuột thì phải bảo đảm hoạt động nhanh, chính xác.
o Cổng nhập. Phải có những ngõ nhập mà bạn cần như cổng cho máy tính, cho tín hiệu như S-Video, composite hay component (R, G, B) cũng như ngõ âm thanh. Nếu trình bày trước đám đông thì nên chọn loại có ngõ xuất riêng cho âm thanh để nối với loa ngoài.

VIII-/ Công nghệ của máy là LCD hay DLP

Nếu xét về công nghệ thì hiện trên thị trường Việt Nam phổ biến hai loại máy chiếu là LCD (Liquid Crystal Display) và DLP (Digital Light Processing).

Loại LCD cho khả năng điều khiển màu sắc, độ nét, ánh sáng hiệu quả, sử dụng ba tấm LCD cho ba màu cơ bản đỏ, lục, dương, cho hình ảnh nét hầu như ở mọi độ phân giải, độ bão hoà màu tốt, hiệu quả về ánh sáng.

Loại DLP thường nhỏ gọn vì chúng dùng ít linh kiện hơn. DLP đáp ứng tốt hơn với phim, video, cho hình ảnh trơn tru, độ tương phản cao nên hình ảnh sáng hơn, ảnh nét, chuyển màu và sắc độ xám mịn.

IX-/ Màn chiếu

Cuối cùng, bạn nên dùng màn chiếu chuyên dụng để có hình ảnh, độ sáng tối ưu thay vì chiếu trên tường.

2. Mua máy chiếu, điều gì cần biết nhất?

Đối với những người có nhu cầu trang bị hệ thống giải trí gia đình, việc chọn mua máy chiếu không dễ khi chúng liên tục lỗi mốt.

Cần một số hiểu biết nhất định

Sở dĩ nói khó mua là bởi, tuy có rất nhiều dòng máy chiếu trên thị trường, nhưng người mua cần có một số hiểu biết nhất định về loại sản phẩm này mới có thể chọn được loại máy đáp ứng đúng chất lượng, giá cả và yêu cầu sử dụng.

Mặc dù giá thành máy chiếu liên tục giảm, nhưng hiện nay mức trung bình vẫn được tính bằng đơn vị chục triệu đồng, do vậy bạn cần cân nhắc xem loại sản phẩm này có thực sự thích hợp với mình, đặc biệt là khi đặc thù của nó có một số hạn chế nhất định. Chẳng hạn, tỉ lệ tương phản của máy chiếu không được xuất sắc. Đây là tỉ lệ giữa màu đen nhất và màu trắng nhất có thể được thể hiện. Khả năng thể hiện độ đen càng lớn thì tỉ lệ này càng lớn, mà đối với một thiết bị hoạt động bằng cơ chế chiếu sáng thì mức độ đen "kịt" hầu như là "bất khả thi".

Rõ ràng là tỉ lệ tương phản 3000:1 thì tốt hơn 1000:1, nhưng chớ nên tin vào tỉ lệ do nhà sản xuất quảng cáo. Đây chỉ là tỉ lệ lý thuyết, được lấy từ mẫu tốt nhất mà họ có được của một loại sản phẩm, do đó một máy chiếu có tỉ lệ tương phản lý thuyết cao hơn chưa chắc đã thực sự cho hình ảnh sắc nét hơn một máy chiếu có tỉ lệ này thấp hơn. Cách tốt nhất là bạn phải lựa chọn thật kỹ bằng mắt mình.

Một vấn đề đặc thù nữa của máy chiếu là "hiệu ứng cửa ra màn hình" (screen-door effect). Hãy thử nhìn kỹ vào phần trắng hoặc sáng màu của hình ảnh được chiếu lên, đối với một số máy chiếu bạn có thể thấy một đường chéo rất mờ ở khu vực này. Mặc dù trong phần lớn các trường hợp, đường chéo này không rõ lắm và bạn chỉ nhìn thấy khi nhìn thật gần, nhưng bạn vẫn cần thận trọng kẻo mua phải máy chiếu có đường chéo này rõ tới mức bạn nhìn thấy nó ngay cả từ khoảng cách xem bình thường. Vấn đề này thường xảy ra ở loại máy chiếu DLP rõ ràng hơn so với ở máy LCD.

Ống kính và màn hình

Máy chiếu có các loại ống kính khác nhau, do đó bạn cần chọn loại máy có ống kính chiếu được kích cỡ hình ảnh phù hợp từ một khoảng cách phù hợp với diện tích căn phòng mà bạn định sử dụng. Bên cạnh đó, chỉ số bù góc vuông của máy cũng khá quan trọng bởi chúng quyết định tính linh hoạt trong việc bố trí máy. Số góc có thể bù càng lớn, bạn càng có thể đặt máy chiếu lệch hơn so với điểm chính giữa nhiều hơn mà vẫn đạt được hình ảnh vuông vắn, trung thực.

Bạn cần nhớ rằng khi dùng máy chiếu, bạn sẽ phải thay bóng đèn, thường là sau khoảng 2.000 - 3.000 giờ sử dụng, tức là trung bình khoảng 2 - 3 năm. Do đó, giá cả của bóng đèn cũng là một yếu tố cần cân nhắc trước khi chọn máy, bởi nó sẽ làm phụ trội tổng chi phí cho máy. Bóng đèn thường có giá vài triệu đồng, nhưng cũng có loại lên tới hơn chục triệu đồng. Một số loại phải nhờ tới bàn thay chuyên nghiệp mới thay được, trong khi một số loại máy chiếu mới cho phép người dùng tự thay bóng đèn. Một số máy chiếu có chế độ chạy tiết kiệm, cho phép kéo dài tuổi thọ bóng đèn, nhưng chế độ này sẽ làm giảm độ sáng của hình ảnh.

3. Cách chọn máy chiếu tại gia đình

Máy chiếu (projector) được lòng dân mê điện ảnh vì dễ bố trí và cho hình ảnh lớn, đẹp. Tuy nhiên, cách sử dụng và bảo quản đồ vật hàng nghìn USD này cũng rắc rối hơn TV đôi chút.

“Ngay cả máy chiếu hàng nghìn USD, nếu không được cài đặt tốt thì chất lượng hình ảnh cũng không như ý muốn”, ông Nguyễn Tuấn Thành, Trưởng phòng Kỹ thuật công ty DigiWorld, đơn vị phân phối độc quyền máy chiếu Infocus tại Việt Nam, khẳng định.

Đa phần những người đam mê nghệ thuật thứ bảy đều công nhận projector là đối thủ đáng gờm nhất của dòng TV cỡ lớn hiện nay. Ưu thế của thiết bị thu hình truyền thống nổi bật nhất ở điểm dễ sử dụng và lắp đặt. Nhưng máy chiếu, ngoài kích thước hình ảnh lớn hơn, còn có ưu thế về giá, chất lượng hình ảnh và khả năng bố trí. So sánh các chỉ số kỹ thuật, máy chiếu ấn tượng hơn màn hình LCD hoặc plasma có cùng giá tiền cả về độ phân giải, độ sáng và tương phản. Nhưng sản phẩm “xuất thân” từ phòng họp của các công ty lớn này cũng khó tính hơn các anh em khác trong dòng thiết bị nghe nhìn và đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt.

Lựa chọn công nghệ: LCD và DLP

“Hiện tại, một số projector thuộc dòng phổ thông cũng có công nghệ xử lý ánh sáng số DLP vốn chỉ có trong những dòng máy chuyên dụng cỡ lớn ở rạp chiếu phim”, ông Thành nói.
Trong công nghệ LCD (liquid crystal display – màn hình tinh thể lỏng) trước đây, máy chiếu tổng hợp hình ảnh màu dựa trên 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh dương (RGB). Nguồn sáng trắng ban đầu được tách thành 3 nguồn sáng đơn sắc là đỏ, lục, xanh dương và được dẫn đến 3 tấm LCD độc lập. Nếu điểm ảnh trên LCD ở trạng thái đóng, ánh sáng không thể xuyên qua thì điểm ảnh biểu diễn trên màn hình là đen. Tương tự, độ sáng của điểm ảnh cũng thay đổi tương ứng theo trạng thái mở của điểm ảnh LCD. Điều khiển 3 tấm LCD đóng mở điểm ảnh theo thông tin ảnh số, ta thu được 3 ảnh đơn sắc theo hệ màu RGB. Sau đó, tất cả được tổng hợp một cách tự nhiên trong một lăng kính theo cơ chế ánh sáng trước khi xuất đến màn chiếu. Nhược điểm của máy chiếu LCD thường thể hiện khi chiếu phim là lộ điểm ảnh, màu đen không thật và hình ảnh chuyển động nhanh sẽ bị nhòe.

Công nghệ DLP đem lại sự nhỏ gọn của máy chiếu tại gia đình.

Khắc phục nhược điểm này, công nghệ DLP sử dụng gương để phản chiếu ánh sáng. Một chip DMD (Digital Micromirror Device) được tích hợp hàng nghìn vi gương, mỗi vi gương tương ứng một điểm ảnh. Vi gương dao động hàng nghìn lần/giây và thể hiện được 1.024 cấp độ xám. Để thể hiện hình ảnh màu, một bánh quay màu (color wheel) được đặt giữa nguồn sáng và DMD. Phổ biến hiện nay là hệ thống sử dụng bánh quay 4 màu gồm đỏ, lục, xanh dương, trắng để lần lượt tạo và xuất ra 4 ảnh đơn sắc trong một chu kỳ. Thay vì tổng hợp tự nhiên tại thấu kính, 4 hình ảnh đơn sắc lần lượt được ghi nhận và tổng hợp tại não người (tương tự như phương pháp tổng hợp ảnh 3D bằng mắt phổ biến trong điện ảnh). Ưu điểm của DLP là tạo được hình ảnh mượt, không lộ điểm ảnh, độ tương phản cao và không bị hiện tượng lệch hội tụ như công nghệ dùng LCD 3 tấm. Cấu tạo máy chiếu DLP đơn giản hơn LCD 3 tấm nên kích thước máy nhỏ nhẹ. Nhờ đưa thêm màu trắng vào bánh quay màu mà hình ảnh tạo ra bởi máy chiếu DLP sáng hơn và có màu trắng rất thuần khiết. Điểm ảnh trong máy chiếu “khít” hơn, hình ảnh sắc nét hơn so với LCD.

Chỉ số kỹ thuật

Độ sáng, độ tương phản và độ phân giải là ba chỉ số cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hình ảnh của máy chiếu. Thông thường, độ sáng được quan tâm nhiều nhất bởi chỉ số này càng cao thì chất lượng hình ảnh càng độc lập với ánh sáng bên ngoài. Đây cũng là căn cứ thể hiện sự khác biệt giữa 2 dòng máy chiếu gia đình và văn phòng.

Phòng họp tại các công ty thường có ánh sáng phức tạp, người có thể đi lại, cần ánh sáng để ghi chép… nên đòi hỏi projector cho nguồn ánh sáng mạnh. Người sử dụng máy chiếu tại gia đình hay thiết kế phòng riêng để thưởng thức, khi xem phim thường tắt hết đèn nên độ sáng chỉ khoảng từ 1.500 - 2.200 Ansilumen là có đáp ứng được yêu cầu. Gia tăng thêm cường độ ánh sáng chỉ có sự khác biệt về… tiền mua máy và tiền điện.

Ngược lại, độ tương phản và phân giải những máy chiếu cho gia đình lại được gia tăng đặc biệt. Nếu độ tương phản càng cao, màu sắc càng sống động, trung thực. Màn LCD hiện nay có độ tương phản phổ biến ở mức 500 – 700:1, trong khi máy chiếu thông thường có độ tương phản từ 1.700 – 2.200:1. Những biểu đồ, đồ thị trong các buổi thuyết trình tại văn phòng không đòi hỏi quá khắt khe về yếu tố này, nhưng đây lại là điểm làm nên sức hút cho những bộ phim DVD. Mỗi projector có thể tương thích với nhiều độ phân giải, chế độ SVGA (800 x 600 pixel) thích hợp với những phòng rộng và tối vì điểm ảnh khá lớn. Chế độ chuẩn XGA (1024 x 768) phù hợp với đa số phòng chiếu gia đình.

Chỉ số bù góc vuông khá quan trọng nhưng thường ít được người mua để ý. Đây là khả năng định hướng luồng sáng của máy chiếu ánh sáng vuông góc với màn ảnh, cho hình ảnh vuông vắn và trung thực. Số góc có thể bù càng lớn, khả năng bố trí máy càng linh hoạt.

Projector dùng để xem phim tại nhà không cần loại có sẵn loa vì chúng thường có công suất vừa phải, chỉ thích hợp với phòng họp nhỏ. Mặt khác, hệ thống rạp hát gia đình thường đi kèm với đầu ampli, máy chơi DVD và dàn âm thanh chuyên dụng.Do đó, những tính năng hỗ trợ chiếu khuôn hình rộng (16:9), chuẩn kết nối DVI, HDTV,… quan trọng hơn để có được chất lượng hình ảnh tốt nhất.

Bảo quản và sử dụng

Không như màn hình TV, máy chiếu có bóng đèn công suất lớn tỏa nhiều nhiệt nên chúng cần được bố trí vận hành tại nơi thoáng mát, nguồn điện ổn định. Sau mỗi lần xem, người dùng phải đợi một lúc cho máy nguội mới cất vào hộp hoặc che phủ tránh bụi. Một số gia đình thiết kế giá treo projector trên trần nhà để đảm bảo yếu tố này mà lại tiết kiệm được không gian. Bóng đèn cũng là linh kiện cần được “chăm sóc” kỹ càng nhất. Thông thường, toàn bộ thân máy chiếu được bảo hành 1-2 năm, nhưng riêng đèn hình chỉ được bảo hành 1 tháng hoặc 90 giờ chiếu. Người dùng cần thường xuyên quan sát bóng đèn, nếu có hiện tượng nhòe hình thì nên thay ngay.

Để tiết kiệm diện tích, người dùng có thể tận dụng bức tường phẳng sơn nhẵn để chiếu hình. Tuy nhiên, chất lượng hình ảnh không thể bằng tấm phông chiếu chuyên dụng. Tấm màn này được phủ sơn phản quang để ánh sáng phản xạ đến mắt người nhiều nhất. Phần lớn màn chiếu có màu trắng, nhưng cũng có loại màu xám để chống chói và tăng sắc đen cho ảnh. Nếu yêu cầu chất lượng cao hơn, khách hàng có thể yêu cầu loại cao cấp trong sơn có pha hạt kim loại tăng độ nét và độ sáng.

Hiện tại, khách hàng mua máy chiếu thường dựa vào thương hiệu hoặc “tư vấn” của bạn bè vì loại sản phẩm này còn mới đối với nhiều người. Những thương hiệu phổ biến ở Việt Nam có Epson, Canon, Infocus, Optoma, Sony… Sản xuất các loại máy chiếu nhỏ gọn cho văn phòng nhỏ và giải trí tại gia đình ngày càng được các nhà sản xuất chú trọng.

4. Máy chiếu LCD hay máy chiếu DLP

Máy chiếu nói chung có thể phân loại theo hai công nghệ, DLP (Digital Light Processing) hay LCD (Liquid Crystal Display). Công nghệ này liên quan đến cơ chế hoạt động bên trong mà máy chiếu sử dụng để hiển thị hình ảnh. Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa 2 nhóm máy chiếu công nghệ LCD (đại diện tiêu biểu là Máy chiếu 3M) với máy chiếu công nghệ DLP (tiêu biểu là Acer), ngày càng quyết liệt.
Điều này giúp cả hai công nghệ tự hoàn thiện mình hơn nữa để chất lượng hình ảnh ngày càng rõ, đẹp, tự nhiên. Đồng thời, giá thành sản phẩm cũng vì thế mà rẻ đi. Sự khác biệt chất lượng giữa các công nghệ phóng hình (LCD, DLP và LCOS) giờ đây còn rất nhỏ. Máy chiếu được phân loại theo một số tiêu chí thông dụng như tính trong suốt (transparent), tính phản chiếu (reflective) đối với ánh sáng truyền; hoặc 3 tấm, 1 tấm theo số lượng tấm tạo ảnh; hoặc LCD, gương, LCOS theo cấu tạo. Về nguyên lý, ánh sáng phát ra từ đèn công suất cao phải đi qua nhiều thấu kính để điều chỉnh cho ổn định, đồng nhất trước khi đến lăng kính điều chế hình ảnh cũng như lúc xuất ra. Hai phương pháp thường được dùng hiện nay là trong suốt cho xuyên qua và phản chiếu bằng gương.

Phương pháp trong suốt thường dùng tấm LCD trong khi phương pháp phản chiếu lại sử dụng hàng ngàn gương nhỏ tương ứng hàng ngàn điểm ảnh. Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng song mức khác biệt chất lượng hiện tại đã được rút ngắn đến mức khó phân biệt. Tiếc là vẫn chưa có máy chiếu nào toàn năng đến mức đáp ứng tốt cả trình diễn nghiệp vụ và chiếu phim. Chính vì thế để lựa được máy chiếu phù hợp với mục đích sử dụng, bạn cần hiểu rõ công nghệ trước.

Cả hai công nghệ LCD hay DLP đều có những ưu điểm riêng, điều quan trọng là hiểu rõ mỗi công nghệ mang lại điều gì.

CÔNG NGHỆ DLP

Digital Light Processing là giải pháp hiển thị kỹ thuật số. Công nghệ DLP sử dụng một vi mạch bán dẫn quang học, gọi là Digital Micromirror Device (tạm dịch là thiết bị phản chiếu siêu nhỏ kỹ thuật số) hay DMD để tái tạo dữ liệu nguồn.

Trái ngược với phương pháp trong suốt cho ánh sáng truyền qua của LCD, công nghệ DLP do Texas Instruments phát triển độc quyền vào năm 1997 sử dụng gương để phản chiếu ánh sáng. Một chip DMD (Direct Micromirror Device) được tích hợp đến hàng ngàn vi gương, mỗi vi gương tương ứng một điểm ảnh. Vì gương dao động hàng ngàn lần/giây và thể hiện được 1.024 cấp độ xám. Để thể hiện hình ảnh màu, một bánh quay màu (color wheel) được đặt giữa nguồn sáng và DMD. Phổ biến hiện nay là hệ thống sử dụng bánh quay 4 màu gồm đỏ, lục, xanh dương, trắng để lần lượt tạo và xuất ra 4 ảnh đơn sắc trong một chu kỳ. Thay vì tổng hợp tự nhiên tại thấu kính, 4 hình ảnh đơn sắc lần lượt được ghi nhận và tổng hợp tại não người (tương tự như phương pháp tổng hợp ảnh 3D bằng mắt phổ biến trong giới thanh niên vào những năm 1990).

 - light source: nguồn sáng
- optics: bộ phận quang học
- color filter: bộ lọc màu
- circuit board: bo mạch
- DMD: chip DMD

Ưu điểm của DLP

* Hiệu ứng "ca-rô" (lưới) nhẹ hơn vì các ảnh điểm gần nhau hơn. Điều này không cho nhiều khác biệt với dữ liệu, nhưng nó cho hình ảnh video mịn hơn.

* Có thể đạt độ tương phản (contrast) cao hơn.
* Gọn nhẹ, dễ di động hơn do có ít thành phần hơn.
* Một số nghiên cứu cho rằng máy chiếu DLP có tuổi thọ cao hơn máy chiếu LCD.

Ưu điểm của DLP là tạo được hình ảnh mượt, không lộ điểm ảnh; tương phản cao và không bị hiện tượng lệch hội tụ như công nghệ dùng LCD 3 tấm. Mặt khác, cấu tạo máy chiếu DLP đơn giản hơn LCD 3 tấm nên kích thước máy nhỏ và nhẹ hơn.

Nhờ đưa thêm màu trắng vào bánh quay màu mà hình ảnh tạo ra bởi máy chiếu DLP sáng hơn và có màu trắng rất thuần khiết; tuy nhiên, điều này lại làm cho tỷ lệ cân bằng giữa các màu chênh lệch và làm giảm sắc độ màu biểu diễn. Để khắc phục, máy chiếu DLP trong rạp hát gia đình có thể dùng bánh quay 6 màu (2 bộ màu RGB) và có trường hợp bổ sung thêm màu lục đậm, xanh dương đậm (bánh quay 7 màu hoặc 8 màu). Việc loại bỏ màu trắng và dùng bánh quay nhiều màu giúp máy chiếu DLP thể hiện màu tươi, phong phú sắc độ hơn nhưng độ sáng bị giảm xuống; vì thế để xem phim tốt với máy chiếu DLP, không gian phòng chiếu cần tối.

Khuyết điểm của DLP

* Độ bão hoà màu thấp hơn (ảnh hưởng nhiều đến dữ liệu hơn video).
* Hiệu ứng "cầu vồng", xuất hiện dưới dạng một vệt sáng giống như cầu vồng loé lên, thường theo sau những vật thể sáng, khi nhìn từ cạnh này sang cạnh kia của màn ảnh, hay khi từ hình ảnh chiếu trên màn ảnh quay sang nhìn vật thể ngoài màn ảnh. Chỉ có ít người nhìn thấy hiệu ứng này, hoặc ta có thể thấy bằng cách nhìn nhanh ngang qua màn ảnh. Có 2 loại máy chiếu DLP, loại cũ có 4 phần trên bộ lọc màu, loại mới có 6 phần và bộ lọc màu quay nhanh hơn, điều đó làm giảm hiệu ứng "cầu vồng" và tăng độ bão hoà màu.
* Hiệu ứng "vầng hào quang" (hay lộ sáng). Nó có thể gây khó chịu cho những người sử dụng máy chiếu xem phim tại nhà. Về cơ bản, đó là một dải xám xung quanh rìa của hình ảnh, gây ra do ánh sáng "đi lạc" bị bật ra khi đụng các cạnh của các tấm gương nhỏ trên chip DLP. Có thể khắc phục bằng cách tạo một đường biên đen rộng vài inch quanh màn ảnh, "vầng hào quang" sẽ rơi trên đường biên này. Tuy nhiên, hiệu ứng "vầng hào quang" ít thấy rõ trên các chip DLP mới, chẳng hạn như chip DDR.
* Nói chung, DLP là công nghệ tốt hơn LCD cho việc xem phim tại nhà. Một số máy chiếu dành cho việc xem phim tại nhà hầu như không bị hiệu ứng "vầng hào quang".

Nhược điểm của DLP không phải mọi người đều nhận thấy. Tùy thuộc vào khả năng xử lý hình ảnh của não mà một số người cảm thấy nhức đầu, hoa mắt và thấy vệt cầu vồng viền quanh đối tượng chuyển động nhanh. Hiện tượng này xuất hiện là do đối tượng chuyển động quá nhanh nên có sự xê dịch trong quá trình tổng hợp các lớp ảnh đơn màu diễn ra trong não. Để loại bỏ hiện tượng này triệt để, dĩ nhiên máy chiếu DLP cũng được phát triển theo hướng sử dụng 3 chip DMD nhưng giá thành hiện nay còn rất cao, khoảng trên 20.000 USD một máy. Một số nhà sản xuất máy chiếu DLP 1 tấm khác đang tìm cách tăng tốc độ quay và tăng số màu trên bánh quay màu. Điều này đã phân hóa dòng máy chiếu DLP: hướng đến phòng chiếu phim gia đình, nhà sản xuất dùng bánh quay 6 màu, tốc độ 120Hz (tương đương 7.200 vòng/phút) trong khi máy chiếu cho ứng dụng nghiệp vụ thì vẫn dùng bánh quay 4 màu (có màu trắng) với tốc độ quay từ 120Hz cho đến 180Hz. Tuy vậy, cách khắc phục này không thể loại bỏ hoàn toàn hiện tượng vệt cầu vồng.

CÔNG NGHỆ LCD

Máy chiếu LCD (liquid crystal display, tạm dịch là hiển thị tinh thể lỏng) tổng hợp hình ảnh màu dựa trên 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh dương (RGB) như cơ chế đang được dùng phổ biến trong chế tạo màn hình, in ấn. Nguồn sáng trắng ban đầu được tách thành 3 nguồn sáng đơn sắc là đỏ, lục, xanh dương và được dẫn đến 3 tấm LCD độc lập. Nếu điểm ảnh trên LCD ở trạng thái đóng, ánh sáng không thể xuyên qua thì điểm ảnh biểu diễn trên màn hình là đen. Tương tự, độ sáng của điểm ảnh cũng thay đổi tương ứng theo trạng thái mở của điểm ảnh LCD. Điều khiển 3 tấm LCD đóng mở điểm ảnh theo thông tin ảnh số, ta thu được 3 ảnh đơn sắc theo hệ màu RGB. Sau đó, tất cả được tổng hợp một cách tự nhiên trong một lăng kính theo cơ chế ánh sáng trước khi xuất đến màn chiếu.

 - light source: nguồn sáng
- red dichroic mirror: gương sắc đỏ
- blue dichroic mirror: gương sắc xanh
- dichroic mirror "wavelength selector": gương chọn lọc bước sóng
- mirror: guơng phản chiếu
- LCD: bộ phận hiển thị tinh thể lỏng
- dichroic combiner cube: thành phần tổng hợp 3 sắc đỏ, xanh lục, xanh
- lens: thấu kính

Ưu điểm của LCD

* LCD nói chung có "hiệu quả ánh sáng" hơn DLP (hình ảnh sẽ sáng hơn với LCD, với đèn có cùng công suất).
* LCD có khuynh hướng cho độ bão hoà màu cao hơn. Tuy nhiên, độ bão hoà màu cao hơn làm cho ta thấy máy chiếu nhìn toàn bộ là sáng hơn, dù là máy chiếu DLP trắng có thể sáng hơn.
* Vì lý do này, nếu đặt một máy chiếu LCD 1000 lumen kế bên một máy chiếu DLP 1200 lumen và cho chiếu hình màu, ta có thể thích máy chiếu LCD do độ sáng của nó.
* LCD có khuynh hướng cho hình ảnh sắc nét hơn (hội tụ chính xác hơn).

Ưu điểm của máy chiếu LCD 3 tấm là thể hiện phong phú sắc độ màu, sắc nét và độ sáng cao. Do tổ hợp cùng lúc 3 màu RGB với nguồn sáng ổn định, không suy giảm, máy chiếu LCD 3 tấm tái hiện màu phong phú và chuyển tiếp màu mượt hơn công nghệ DLP 1 tấm. Độ sắc nét của máy chiếu LCD 3 tấm trội hẳn DLP trong các ứng dụng nghiệp vụ. Độ hiệu quả ánh sáng (ANSI lumen xuất ra/công suất đèn) của máy chiếu LCD cũng có phần nhỉnh hơn DLP.

Khuyết điểm của LCD

* Hiệu ứng "ca-rô" làm hình ảnh trông bị "vỡ hạt".
* Cấu tạo lớn hơn, vì có nhiều thành phần bên trong hơn.
* Hiện tượng "điểm chết" - các ảnh điểm có thể luôn tắt hay luôn mở, được gọi là điểm chết. Nếu máy chiếu có nhiều điểm chết, nó sẽ gây khó chịu cho người dùng.
* Các tấm kính LCD có thể bị hỏng và thay thế rất đắt tiền. Chip DLP cũng có thể bị hỏng nhưng tương đối hiếm vì có ít linh kiện bên trong hơn.

Nhược điểm của máy chiếu LCD thường thể hiện khi chiếu phim là lộ điểm ảnh và màu đen không thật. Tuy nhiên, với thế hệ máy chiếu phân giải XGA hiện nay, mắt thường rất khó phân biệt được điểm ảnh. Với thế hệ D4 mới nhất mà Epson chế tạo, khoảng phân cách giữa hai điểm LCD đã giảm từ 3 micron xuống 2,5 micron. Còn để tạo được màu đen tự nhiên, Epson vừa áp dụng kỹ thuật thay đổi động cường độ sáng trong mẫu máy Dreamio EMP-TW200H. Chế độ cinema tối ưu cho mục đích chiếu phim tự động giảm công suất nguồn đèn trong khoảng 1.500lm đến 500lm.

Để thể hiện được những chi tiết khuất trong vùng tối hoặc vùng sáng, Epson có chức năng tăng cường mức trắng và đen (black & white level enhancer): đường gamma sẽ được chỉnh cong lên khi khung hình tối và chỉnh cong xuống trong trường hợp khung hình sáng. Kính lọc cinema mà Epson vừa đưa vào giúp lọc bớt màu lục, xanh dương nên màu da người có phần hồng hào hơn, màu sắc chuyển mượt và sâu hơn. Texas Instruments từng tài trợ một thử nghiệm để chứng minh máy chiếu LCD nhanh xuống màu hơn DLP. Kết quả thử nghiệm cho kết quả đúng nhưng tuổi thọ của tấm LCD giờ đã được nâng lên nhiều nhờ công nghệ chế tạo LCD HTPS (high temparature polysilicon) của Epson cho phép LCD chịu được nhiệt độ 1.000 độ C.

CÔNG NGHỆ LCOS - Liquid Crystal on Silicon

Công nghệ LCOS là giải pháp kết hợp đượcPhương thức LCOS 3 tấm giữa 2 công nghệ LCD và DLP. Bên trên lớp đế gương phản chiếu là lớp phủ thạch anh lỏng. Ứng với trạng thái đóng hoặc mở của thạch anh mà tia sáng nguồn được phản chiếu trên lớp đế gương hoặc không, tạo ra điểm sáng hoặc tối. Hơn nữa, việc chế tạo LCOS có thể thực hiện ngay trên những dây chuyền sản xuất vi mạch bán dẫn hiện có nên chi phí sản xuất dễ chấp nhận hơn.

Ưu điểm của LCOS

Ưu điểm lớn nhất của công nghệ LCOS là tạo được hình ảnh mượt, không hề lộ điểm và vượt qua cả chip DLP Mustang phân giải cao (1280x720). Độ sắc nét của LCOS trội hơn DLP đồng thời thể hiện màu tự nhiên hơn. Một điểm khác cũng hết sức quan trọng là máy chiếu LCOS hoàn toàn không gây ra hiện tượng vệt cầu vồng hay hoa mắt cho người xem.

Khuyết điểm của LCOS

Điểm yếu hiện tại của công nghệ này là độ tương phản chưa cao: hiện mới chỉ đạt đến 800:1 trong khi công nghệ LCD và DLP hiện tại đã đạt đến 6.000:1. Ngoài ra, tuổi thọ bóng đèn LCOS còn đang ở mức 1.500 giờ và giá thay thế còn rất cao.

KẾT LUẬN

Máy chiếu công nghệ DLP nhìn chung được ưa thích cho việc xem phim tại nhà và tính di động. Máy chiếu LCD thì tốt hơn cho các đòi hỏi cao về màu sắc.

5. Chơi HD bằng máy chiếu

Xem phim HD bằng máy chiếu đem lại cho người xem cả không gian và không khí thực như đang thưởng thức phim trên màn ảnh rộng tại rạp.

Theo một số người sành chơi, có nhiều cách xem phim HD nhưng để thưởng thức "mãn nhãn" nhất phải là máy chiếu. Ngay cả các TV LCD hay Plasma màn hình cực lớn vẫn nhỏ mà không đem lại cho người xem một không gian cũng như không khí xem phim thực như ở rạp, anh Nguyễn Long thành viên box HD Film Club của diễn đàn Nghe Nhìn Việt Nam chia sẻ.


Xem phim HD bằng máy chiếu đem lại 1 cảm giác rất "Xi-ne" (Ảnh V-zone)

Tại Việt Nam, thị trường máy chiếu giải trí gia đình - Homecinema Projector - có sự góp mặt của rất nhiều sản phẩm đến từ các tên tuổi uy tín như Canon, Panasonic, Sanyo, Sony, Toshiba hay Optoma với giá bán trung bình khoảng 20 - 40 triệu đồng. Tầm tiền này tương đương với một HDTV tốt, cỡ lớn, như Panasonic Plasma TH-P50S10S 50 inch giá 28 triệu đồng hay Samsung LCD LA52B550 52 inch giá 39,5 triệu đồng. Khi xem phim HD trên những TV này, người xem không thấy được sự khác biệt về không gian, đơn giản vẫn là xem TV. Với máy chiếu, khả năng chiếu hình có thể gấp cả 10 lần độ lớn màn TV, lên đến cả 100 inch nhưng vẫn đảm bảo cho chất lượng hình ảnh tốt.

Máy chiếu đáp ứng tốt các yếu tố kỹ thuật cần thiết cho việc trình chiếu phim HD. Ví dụ, mẫu Sony VPL-BW7 giá chỉ 18 triệu đồng, có khả năng chiếu hình 40 - 300 inch, hỗ trợ độ phân giải HD 720p. Máy sử dụng đèn chiếu 3LCD BrightEra độ sáng 2.000 ANSIlumens, có độ tương phản 1.000:1. Sony VPL-BW7 tích hợp sẵn ngõ vào HDMI giúp kết nối với các thiết bị như đầu phát HD, đầu Blu-ray, PC hay máy chơi game Play Station 3. Bên cạnh đó, nếu muốn xem TV qua máy chiếu cũng hoàn toàn có thể thực hiện dễ dàng khi kết nối với PC hay laptop có bộ thu truyền hình số tích hợp sẵn hoặc có thể mua và gắn ngoài qua cổng USB.


Một khoảng tường rộng quét sơn trắng và mịn trong phòng có thể là màn chiếu tốt
(ảnh Saaria)

Vấn đề phông chiếu cũng được đơn giản hóa, có thể sử dụng các màn phông chiếu chuyên dụng hay dùng ngay một khoảng tường rộng quét sơn trắng và mịn trong phòng để làm màn chiếu khuôn hình lên, vừa đảm bảo tính thẩm mỹ vừa kinh tế. Lên đến tầm chuyên nghiệp, các tay chơi có khả năng còn dựng riêng phòng chiếu chuyên dụng được thiết kế với điều kiện ánh sáng phù hợp và cách âm, cũng như trang bị các dàn âm thanh cao cấp để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu xem phim tại gia thực như đi rạp.

Phòng chiếu chuyên dụng rộng 40m2 bố trí khoảng cách chỗ ngồi xem cách tường hoặc màn chiếu 100 inch tầm 3 mét là lựa chọn phù hợp. Không nên đặt máy chiếu ngay tại phòng khách vì thế sẽ làm loãng không khí "xi-nê" và dễ bị yếu tố ánh áng làm ảnh hưởng tới chất lượng hình ảnh. Ngoài ra tính cơ động cao của máy chiếu cũng được đánh giá cao, bởi với trọng lượng khoảng 3 kg, người chơi có thể dễ dàng di chuyển máy đến vị trí phù hợp hay tới nhà bạn bè để cùng thưởng thức phim.

Nhưng một nhược điểm của máy chiếu là sau một thời gian thưởng thức phim HD, người dùng sẽ phải thay bóng chiếu, trung bình là từ 2-3 năm và giá tiền khoảng trên 200 USD tùy thuộc loại bóng mà máy sử dụng.